Cá Giống Trường Phát Cá Giống Trường Phát
Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản

Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản

Home Tin Tức Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản
Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản
16/07/2025
Cá Giống
14 Lượt xem

Chia sẻ với:

Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) vừa có báo cáo cho biết bức tranh toàn cảnh và chi tiết về hiện trạng cá biển toàn cầu: Có 35,5% quần thể cá biển đang bị khai thác quá mức. Đại dương không còn là “kho cá vô tận” và nhiều quốc gia đã phát triển nuôi biển công nghiệp, xa bờ. Việt Nam có điều kiện tự nhiên giàu tiềm năng phát triển nuôi biển, thuận lợi để xây dựng một ngành kinh tế mới khai thác cơ hội toàn cầu, tuy nhiên phải vượt qua 4 rào cản lớn hiện nay.


Cá biển toàn cầu cạn kiệt và ngành kinh tế mới

Báo cáo của FAO đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ bởi đó là kết quả khảo sát hơn 2.570 quần thể cá biển với sự tham gia của 650 chuyên gia thuộc 90 nước. Cả thế giới có 35,5% quần thể cá biển đang bị khai thác quá mức, và thực trạng rất cấp bách ở các khu vực Địa Trung Hải, Đông Nam Thái Bình Dương, Tây Phi bởi tỷ lệ cá những nơi này đã bị khai thác vượt ngưỡng bền vững, lên tới 50 - 65%. Nhiều vùng biển trước đây trù phú mà nay đối diện nguy cơ cạn kiệt, đe dọa sinh kế hàng triệu ngư dân và sự cân bằng sinh thái đại dương.

Một số khu vực quản lý tốt thì tài nguyên biển phục hồi tích cực như vùng Bắc Thái Bình Dương, Nam Cực với 85 - 90% quần thể cá được duy trì ở mức bền vững. Ở đây có hệ thống giám sát hiện đại cùng các chính sách bảo vệ nguồn lợi thực sự khoa học.

Xu hướng toàn cầu đang chuyển mạnh từ khai thác tự nhiên sang nuôi biển công nghiệp, xa bờ. Một số nước như Na Uy, Trung Quốc, Chile đã đầu tư mỗi năm hàng tỷ USD cho nuôi biển công nghiệp. Nhiều nơi hình thành các hệ sinh thái nuôi cá, tôm được tự động hóa với lồng nổi chống bão, cảm biến môi trường, ứng dụng AI và blockchain giám sát chuỗi giá trị. Những hoạt động đó giúp giảm áp lực lên tài nguyên biển, chủ động nguồn cung hải sản cho tiêu dùng và xuất khẩu, xây dựng một ngành kinh tế mới toàn cầu.

Việt Nam nhiều tiềm năng và hạn chế

Nước ta có hơn 3.260 km bờ biển với vùng đặc quyền kinh tế biển hơn 1 triệu km². Trong đó có hàng nghìn hòn đảo, nhiều cửa sông lớn đổ ra cùng các dòng hải lưu tạo nên hệ sinh thái biển đa dạng của thế giới, giàu tiềm năng cho phát triển nuôi biển. Từ Bắc vào Nam có nhiều vùng vịnh kín gió, nước sâu thích hợp để nuôi nhiều loại cá, tôm giá trị cao.

Theo Ngân hàng Thế giới, tiềm năng ngành nuôi biển Việt Nam mỗi năm có thể tạo ra 5 - 10 tỷ USD doanh thu. Nước ta lại gần các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc có nhu cầu cao về hải sản mà nguồn tự nhiên trong nước đã khan hiếm, luôn sẵn sàng chi trả cho hải sản nhập khẩu.

Ngành nuôi biển nước ta cũng được quan tâm phát triển mấy năm qua, tuy nhiên, đến nay mới chiếm 4 - 5% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản, tỷ lệ xuất khẩu thấp. Hầu hết nuôi nhỏ lẻ, manh mún gần bờ, thiếu liên kết chuỗi và đối diện nhiều rủi ro dịch bệnh, khó kiểm soát chất lượng. Một số nơi nuôi biển công nghệ cao nhưng chậm mở rộng.

Hiện thực chưa tương xứng tiềm năng, theo các chuyên gia, trước hết do tư duy chưa chuyển kịp xu thế thời đại từ “đánh bắt cạn kiệt” sang “nuôi biển công nghệ cao”. Trong quản lý cần chuyển từ giao biển sang cho thuê biển dài hạn để nhà đầu tư an tâm, kèm theo tín dụng ưu đãi nuôi biển công nghiệp, nghiên cứu giống, đào tạo nhân lực. Cần có chiến lược quốc gia phát triển nuôi biển công nghệ cao, với chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng thiết yếu như cảng, khu logistics. Đồng thời có chính sách bảo hiểm rủi ro để ngành nuôi biển đứng vững trước biến động bất thường.


Chuyên gia phân tích 4 rào cản cốt lõi

PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế, cho rằng có 4 rào cản cốt lõi đang kìm hãm doanh nghiệp phát triển nuôi biển công nghệ cao.

Thứ nhất, thể chế còn thiếu sự nhất quán, chưa thực sự tạo dựng được môi trường kiến tạo và đồng hành cùng doanh nghiệp. Nuôi biển là ngành kinh tế mới quan trọng, cần xây dựng khung pháp lý riêng, có thể là luật riêng. Hiện nay, thể chế còn phân tán ở các luật, như Luật Đầu tư, Luật Đất đai…, thiếu tập trung, chưa thể hiện sự minh bạch, rõ ràng. Việc phân cấp, phân quyền trước đây chồng chéo, nay đang tạo điều kiện chủ động cho địa phương nhưng mới bắt đầu. Còn thiếu các cơ chế đủ mạnh để bảo vệ doanh nghiệp làm ăn chân chính, khuyến khích đầu tư nuôi biển công nghệ cao.

Thứ hai, quy hoạch phát triển thiếu ổn định, nặng cơ chế “xin - cho”, chưa tạo được nền tảng đồng hành cùng doanh nghiệp.

Thứ ba, việc tiếp cận tín dụng dù đã có các chính sách hỗ trợ phục vụ phát triển nông nghiệp nhưng thực tế còn nhiều khó khăn với doanh nghiệp.

Thứ tư, môi trường đầu tư chưa thật sự minh bạch, thuận lợi để doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài.

Doanh nghiệp nêu 4 rào cản đầu tư

Những năm qua, một trong các doanh nghiệp đầu tư nuôi biển nổi bật là Công ty Cổ phần Tập đoàn STP (STP Group). Đây là doanh nghiệp chuyên sản xuất nhựa HDPE làm lồng và phao nổi phục vụ nuôi biển (loại nhựa thân thiện với môi trường đã sử dụng phổ biến ở các cường quốc nuôi biển). Hiện STP Group đang hợp tác với 21 hợp tác xã ở Quảng Ninh xây dựng chuỗi khép kín từ nuôi đến xuất khẩu. Tổng Giám đốc STP Group Nguyễn Thị Hải Bình chia sẻ 4 rào cản đang khiến doanh nghiệp tư nhân dè dặt đầu tư nuôi biển công nghệ cao, mong được tháo gỡ để phát triển tiềm năng lớn của đất nước.

Một là, quy hoạch chưa được bài bản cho nuôi biển công nghiệp. Để đầu tư nuôi biển công nghiệp, doanh nghiệp cần không gian biển rõ ràng, ổn định nhưng thực tế quy hoạch chậm cập nhật, manh mún và còn chồng lấn với vận tải, du lịch, đánh bắt...

Hai là, khó khăn trong cấp phép và thủ tục hành chính. Muốn nuôi biển phải xin vùng nuôi, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, xây dựng hạ tầng và cấp phép đầu tư mất rất nhiều thời gian, lại chưa thống nhất ở các địa phương. Điều này làm tăng chi phí, giảm cơ hội và giảm nhiệt huyết đầu tư của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Ba là, thiếu chính sách tín dụng và bảo hiểm đặc thù. Nuôi biển công nghệ cao là lĩnh vực đầu tư lớn, rủi ro cao, cần vốn trung - dài hạn. Hiện chưa có gói tín dụng dành cho ngành này và gần như không có cơ chế bảo hiểm phù hợp nếu gặp thiên tai, dịch bệnh. Doanh nghiệp tư nhân khó “đơn độc vượt sóng” nếu không có sự hỗ trợ từ chính sách.

Bốn là, khoảng trống về chuyển giao công nghệ và thị trường. Nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư nhưng thiếu thông tin, thiếu công nghệ phù hợp với điều kiện thực địa, cũng như thiếu hệ sinh thái hỗ trợ giống, vật tư, bảo quản, chế biến. Đầu ra cũng chưa ổn định, chưa có đủ các tiêu chuẩn chất lượng rõ ràng để kết nối vào chuỗi giá trị xuất khẩu.

 

Tìm kiếm